XU THẾ TIÊU DÙNG NÔNG SẢN THỰC PHẨM VÀ VAI TRÒ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA CÁC KHU VỰC TRONG THẬP NIÊN ĐẾN NĂM 2025

Đăng bởi TS. Lê Thành Ý

06/04/2020 22:19

Nông nghiệp toàn cầu đang đối mặt với những thách thức BĐKH, dân số tăng nhanh và nguồn lực ngày càng khan hiếm. Nhu cầu đời sống đòi hỏi ngành phải có những đổi mới phương hướng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân loại.

Là trung tâm của an ninh lương thực, nông nghiệp và các hệ thống lương thực thực phẩm đang đảm nhận hàng loạt chức năng để đảm bảo cuộc sống của hàng tỷ con người.Các nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới từng xác định, an ninh lương thực là điều kiện khi tất cả mọi người ở mọi lúc đều được tiếp cận với thực phẩm đầy đủ, an toàn, bổ dưỡng để duy trì cuộc sống năng động và khỏe mạnh (NIC 2012). Muốn đảm nhận được vai trò quan trọng này, đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ một cách bền vững

Tiêu dùng nông sản thực phẩm, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển

Theo nhiều dự báo, trong giai đoạn 2016-2025,dân số thế giới sẽ từ 7,4 tỷ tăng lên 8, 1 tỷ người, với 95% mức gia tăng diễn ra ở những nước đang phát triển. Trong khu vực này, hạ Sahara Châu Phi (SSA) là nơi có mức tăng cao nhất, đạt tỷ lệ bình quân tăng 2,7%/năm. Cùng với gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện sẽ là động lực thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm gia tăng.

Xu thế tiêu dùng tại nhiều quốc gia phát triển theo một quá trình được gọi là ”quá độ dinh dưỡng”. Theo đó, người tiêu dùng ở các nước đang phát triển sẽ chuyển từ nhu cầu ăn nhiều calo sang protein và chất dinh dưỡng từ rau và trái cây. Xu hướng này sẽ đẩy mạnh tiêu thụ đường, dầu chất béo thực vật và thực phẩm chế biến.

Cơ cấu tiêu thụ lương thực thực phẩm toàn cầu có nhiều phức tạp, bởi người tiêu dùng có tình trạng suy dinh dưỡng, quá và thiếu dinh dưỡng trong chế độ ăn uống hàng ngày.Tại những nước phát triển, mô hình tiêu thụ ít bị ảnh hưởng từ thu nhập nên chế độ thực phẩm sẽ ổn định hơn. Cho dù khoảng cách giữa các nước phát và đang phát triển ngày càng thu hẹp, song thực phẩm tiêu thụ bình quân đầu người ở các quốc gia phát triển vẫn ở mức cao.

Trong khẩu phần ăn ở các nhóm nước, ngũ cốc vẫn là thành phần chủ yếu, nhưng tầm quan trọng có xu hướng giảm dần. Bình quân lượng ngũ cốc làm thực phẩm tính theo đầu người có xu hướng tăng nhẹ ở các nước đang phát triển.

Tiêu thụ thịt bình quân ở các nước phát triển vào năm 2025 được dự báo lên 69,7 kg/người, cao hơn 2 lần các nước đang phát triển và gấp 7 lần so với nhóm nước SSA. Tương tự, tiêu thụ cá sống bình quân đầu người ở những nước đang phát triển đạt 21,5 Kg/năm, nhưng vẫn còn thấp hơn 1,8Kg/năm  so với nhóm nước phát triển.

Đáng chú ý trong xu thế chuyển đổi cơ cấu tiêu thụ thực phẩm là gia tăng nhanh sản phẩm sữa bình quân đầu người. Các nhà phân tích dự báo, mức tiêu thụ bình quân đầu người ở các nước đang phát triển sẽ tăng 21% trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2025. Ở các nước phát triển, mức tiêu thụ cũng theo xu hướng tiếp tục tăng cao hơn so với những  thập kỷ trước.

Nhìn tổng thể, việc tiêu thụ nhiều thịt, cá và sản phẩm sữa dẫn đến chế độ ăn đa dạng và lượng protein hấp thu bình quân đầu người cao hơn. Trong chiều hướng gia tăng tiêu thụ thực phẩm toàn cầu, nhu cầu về đường, dầu thực vật và hàng hóa nông sản của các nước đang phát triển sẽ gia tăng nhanh.

Phù hợp với chế độ ăn uống lành mạnh, lượng đường tiêu thụ hàng ngày không vượt quá 10% tổng năng lượng hấp thu, đến năm 2025, bình quân đầu người ở các nước đang phát triển cần đạt 23kg/năm (tăng 15%). Theo nhiều dự báo, đến năm 2025, mức tiêu thụ dầu thực vật bình quân đầu người ở các nước đang phát triển cũng lên tới 23,5 Kg/năm.

 Gia tăng tiêu thụ thực phẩm bình quân đầu người cùng với dân số gia tăng cao sẽ thúc đẩy mạnh gia tăng nhu cầu lương thực, bởi số lượng lớn ngũ cốc và hạt có dầu cần được sử dụng để làm thức ăn chăn nuôi và sản xuất dầu sinh học ngày càng lớn.

Sản xuất nông nghiệp và vai trò các khu vực toàn cầu trong thập niên tới

Thập niên 2016-2025, sản xuất nông nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức do giá nông sản giảm, dữ trữ đã được bổ sung và tăng trưởng ở các nước sản xuất chính có chiều hướng châm lại. Do nhu cầu gia tăng có sự khác biệt giữa các loại nông sản thực phẩm; mặt khác, đầu tư kém hấp dẫn nên tăng trưởng nông nghiệp toàn cầu về tổng thể có chiều hướng giảm so với những thập niên trước. Sản lượng cây trồng được dự báo chỉ tăng 1,5% (NASATI 2017) với vai trò của từng khu vực ngày càng  được thể hiện rõ ràng.

.2.1.Vai trò của khu vực Đông và Nam Á

Là khu vực sản xuất nông sản lớn nhất thế giới, trong giai đoạn 2013-2015, Đông và Nam Á đã sản xuất 40% lượng ngũ cốc và thịt, gần 60% các loại dầu thực vật của toàn thế giới. Nhờ tăng cường sản xuất và nâng cao hiệu quả, sản lượng nông nghiệp khu vực được dự báo sẽ tăng 20 % trong thập niên 2016-2025. Trong sự tăng trưởng này, lĩnh vực chăn nuôi đóng góp khoảng 40%, trồng trọt 33% và thủy sản 27%.

Theo các nhà phân tích, từ lợi thế và quá trình cải thiện năng suất nông nghiệp, thập niên sắp tới 89% sản lượng lúa gạo gia tăng toàn cầu là ở các nước Đông và Nam Á. Cây trồng quan trọng thứ 2 là ngô, sản lượng gia tăng của khu vực chủ yếu đến từ Trung Quốc. Sản xuất đậu tương sẽ đóng góp khoảng 30% vào gia tăng sản lượng toàn cầu. Ngoài vai trò nhập khẩu hàng đầu, Trung Quốc còn là một trong những nước sản xuất lớn nhất các loại cây có dầu. Mặc dù giữ vị trí quan trọng trong nông nghiệp toàn cầu, song để đáp ứng nhu cầu tăng nhanh về thịt, cá và sữa các nước trong khu vực vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

Phân tích nhu cầu khu vực, các nhà nghiên cứu nhận thấy, đến nằm 2025, sản lượng thịt tăng đến 17% để đạt được mức tăng bình quân 1,8 triệu tấn/năm. Mặt khác, đô thị hóa nhanh cùng với thu nhập tăng cao đòi hỏi ngành sữa phải phát triển mạnh với sản lượng tăng 20%. Nếu phát triển với mức tăng 47%, Ấn Độ sẽ trở thành quốc gia sản xuất sữa lớn hàng đầu thế giới.

2.2. Châu Mỹ khu vực hướng về xuất khẩu trong đà tăng trưởng nhanh

Với tỷ lệ gần 90% sản lượng toàn cầu, Bắc Mỹ, Mỹ La tinh và vùng Caribe đang chiếm ưu thế về sản xuất cọ dầu. Các nước trong vùng còn sản xuất khoảng 30% sản lượng ngũ cốc , thịt và sữa toàn thế giới. Ngũ cốc tập trung nhiều ở Bắc Mỹ, dẫn đầu là ngô và đậu tương với sản lượng gia tăng khoảng 10%. Lúa mỳ là một cây trồng quan trọng, song diện tích có xu hướng giảm và năng suất tăng không đáng kể.

Mỹ La tinh là nơi mở rộng diện tích quan trọng của nông nghiệp thế giới với dự báo tổng diện tích cây trồng tăng 24%. Trong đó, đậu nành là cây tăng trưởng chủ yếu; mía, bông là nguồn phát triển mạnh của nông nghiệp Brazil; nuôi trồng thủy sản có nhiều triển vọng phát triển với mức tăng trưởng dự kiến lên tới 40%.Trong khu vực châu Mỹ, Hoa Kỳ và Brazil là 2 nước sản xuất Ethanol lớn nhất. Brazil dự kiến sẽ tăng sản lượng thêm 25%, còn sản xuất của Hoa Kỳ có xu hướng giảm do nhu cầu trong nước và thế giới yếu đi.

2.3. Đông Âu và Trung Á với những ảnh hưởng về ngũ cốc

Là khu vực đã trải qua sự phát triển nhanh về sản lượng nông nghiệp trong những thập kỷ trước đây với năng suất cây trồng tăng đến 42%. Trong những năm 2013-2015, khu vực đã sản xuất trên 10% sản lượng ngũ cốc toàn cầu. Tuy nhiên, do điều kiện thời tiết thay đổi kéo theo bất ổn sản xuất, dẫn đến sự không chắc chắn của thị trường ngũ cốc toàn cầu. Trong giai đoạn dự báo đến năm 2025, nhiều khả năng sản lượng nông nghiệp sẽ tăng 13%. Tuy nhiên, khó có khả năng mở rộng diện tích như thững thập kỷ trước. Mặc dù giá thịt có xu hướng giảm thấp, song ngành chăn nuôi, nhất là gia cầm vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Theo đó, tổng sản lượng thịt có thể tăng gấp 3 lần so với giai đoạn trước

2.4.Tây Âu trong xu thế sản xuất ổn định.

Các nước công nghiệp phát triển châu Âu có vai trò đáng kể trong sản xuất nông nghiệp với lượng sữa chiếm 36%, nhiên liệu sinh học 30%, thịt 15% và ngũ cốc 13% trong tổng sản lượng toàn cầu. Sau nhiều năm phát triển, nhu cầu nhiên liệu sinh học có chiều hướng giảm, thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trong nước kém đi nên tổng diện tích ngũ cốc của khu vực được dự báo sẽ giảm 3% vào năm 2025. Với năng suất hầu hết các loại cây trồng đạt cao nhất thế giới, Tây Âu vẫn là khu vực tập trung sản xuất ngũ cốc. Trong lĩnh vực chăn nuôi, sản xuất thịt (gia cầm và lợn) được dự báo sẽ tăng cao hơn 2 lần so với mức tăng của các loại cây trồng vào năm 2025.

2.5.Bắc Phi và Trung Đông sản xuất còn nhiều khó khăn

Điều kiện tự nhiên không thuận lợi và tình hình chính trị bất ổn được cho là cản trở chính của sản xuất nông nghiệp khu vực. Do thiếu nguồn nước tưới nên nông nghiệp chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong sản lượng nông nghiệp toàn cầu.

Lúa mỳ là cây trồng chính, chiếm gần 60% diện tích canh tác của toàn khu vực; ngoài ra, cây cho đường cũng được phát triển; thịt và cá duy trì với tốc độ tăng trưởng thấp, sản lượng chỉ có thể tăng ở mức 1% hàng năm. Với đầu vào và năng suất chăn nuôi lấy sữa còn thấp, hầu hết sản phẩm sữa được tiêu thụ ở dạng sữa tươi với số lượng còn nhiều hạn chế.

2.6.Châu Đại Dương với tiềm năng nông sản xuất khẩut

Điểm nổi bật của châu Đại Dương là có sản lượng nông sản thực phẩm bình quân đầu người cao, tạo được dư lượng lớn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu của toàn châu lục đối với thị trường thế giới còn khá khiêm tốn, chỉ chiếm 9% đối  sữa, ngũ cốc và thịt khoảng 2%.

Theo dự báo, sau giai đoạn phục hồi, sản lượng thời gian tới có thể tăng khoảng 11%, Với nhu cầu nhập khẩu thịt toàn cầu chậm lại, ngành chăn nuôi có xu thế tăng chậm, sản xuất sữa tiếp tục phát triển nhờ gia tăng đàn bò sữa chăn nuôi trên đồng cỏ.

Từ tình hình và xu thế phát triển nông nghiệp ở các khu vực có thể nhận thấy, thách thức hiện nay của sản xuất nông nghiệp toàn cầu là việc tìm kiếm giải pháp gia tăng năng suất cây trồng, vật nuôi để nâng cao sản lượng với đầu tư ít nhất nguồn lực đầu vào. Theo đó, công nghệ sẽ là một trong những công cụ then chốt để thực hiện nhiệm vụ này.

Sau hơn 30 năm Đổi mới, nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành công ấn tượng. Từ một nước nhập khẩu lương thực để cứu đói, đã trở thành quốc gia xuất khẩu lương thực có thứ hạng cao; nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chiếm được vị trí dẫn đầu, đang dần định hình được thương hiệu, uy tín về chất lượng trên thị trường thế giới.Tuy nhiên do hàm lượng chế biến thấp; kênh tiêu thụ vẫn theo phương thức truyền thống, chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô giá trị gia tăng thấp và điều quan ngại là năng suất lao động của ngành nông nghiệp được đánh giá thấp nhất trong khu vực.Trong xu thế phát triển toàn cầu, để phát huy lợi thế nông nghiệp, các nhà phân tích cho rằng   Chuyển đổi mạnh mẽ ngành nông nghiệp,làm cho nông nghiệp trở nên hiệu quả và bền vững là yếu tố thiết yếu để nâng cao tăng trưởng GDP, giúp cho Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao”.

Để đạt được sự chuyển đổi này, nông nghiệp Việt Nam cần vượt qua được những thách thức về cấu trúc thị trường và khả năng cạnh tranh; tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn quản lý tài nguyên bền vững; có chính sách khuyến khích tích tụ đất đai và tập trung giải quyết những tác động ngày càng tiêu cực của biến đổi khí hậu./.       

Viện trưởng Viện AIP được bầu làm Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam Viện trưởng Viện AIP được bầu làm Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam

Ngày 12/01/2019, tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội toàn quốc Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam nhiệm kỳ III (2018 - 2023) đã bầu GS. TSKH Trần Duy Quý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hợp...

TS. Lê Thành Ý
Nguồn Tạp chí Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam
Bạn đang đọc bài viết "XU THẾ TIÊU DÙNG NÔNG SẢN THỰC PHẨM VÀ VAI TRÒ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA CÁC KHU VỰC TRONG THẬP NIÊN ĐẾN NĂM 2025" tại chuyên mục Trồng trọt. Cảm ơn Quý vị đã tìm hiểu những thông tin tư liệu tham khảo về: Tin tức hoạt động của VIỆN NGHIÊN CỨU HỢP TÁC KHOA HỌC KỸ THUẬT CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG về Khoa học, Kỹ thuật, Hợp tác đầu tư, Dự án, Tri thức, Thời đại, Sản phẩm dịch vụ KHKT do Viện phối hợp với đối tác, khách hàng giới thiệu trên Website http://kinhtevadautu.vn/ theo Điều lệ Viện và Quy định tại Khoản 3, Điều 20, Nghị định số 72/2013/NĐ - CP ngày 15/07/2013 của Chính phủ.